Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Quan làm báo .

LỜI THÚ TỘI KINH HOÀNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Từ trái qua phải. Lý Bằng, Giang Trạch Dân (nắm tay Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng (chắp tay)
Từ trái qua phải. Lý Bằng, Giang Trạch Dân (nắm tay Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng (chắp tay)

Trúc Giang MN


1* Mở bài

Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đưa tin như sau:
 
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói quan hệ Việt-Trung vẫn “phát triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình’.
 
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh
 
Ông Thanh nói:”Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” (Phùng Quang Thanh)
 
Ông Thanh ví cuộc tranh chấp như mâu thuẩn trong một gia đình rất đúng. Về mâu thuẩn gia đình thì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
 
Mâu thuẩn trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là hiện thực, Tây Tạng và Tân Cương là một chứng minh cụ thể.
 
GS Carl Thayer cho biết: “Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể”, do đó ta có thể nhận ra ‘mâu thuẫn gia đình’ nằm trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
 
“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu”. Đó là lời xác nhận của một cán bộ Việt Cộng cao cấp thuộc Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao, đã tuyên bố sau Hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990.
 
Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố như thế thì có thể tin tưởng được Hội nghị Thành Đô đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc. Đó là đại sự của quốc gia cho nên ông không có thể nói chơi cho vui miệng, vì lời nói có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp chính trị của ông. Bị mất chức.
 
Bài nầy nêu những bằng chứng cụ thể để chứng minh hoạt động của hai bên Việt-Trung trong chương trình 30 năm về mọi mặt gọi là “đại cuộc”, và ngụy trang bằng cụm từ “16 chữ vàng”
 
Do kinh nghiệm ở hai khu tự trị Tây Tạng và Tân Cương, chính quyền trung ương ở Bắc Kinh đã kiềm chế CSVN bằng cách đã cấy sinh tử phù và đặt chiếc vòng kim cô lên đầu CSVN cho nên những tên Hán ngụy hiện nay như cá nằm trên thớt, vô phương cục cựa.
 
Giang Trạch Dân đã cho CSVN thời gian 30 năm để tiến hành sự kiện vĩ đại đối với Việt Nam cho nên gọi đó là “đại cuộc” và việc thực hiện chương trình 30 năm nằm trong khuôn khổ “16 chữ vàng”. Vì thế cứ mỗi lần có tranh chấp thì Bắc Kinh khuyên nhũ Việt Cộng hãy vì “đại cuộc”, và CSVN luôn luôn cam kết thực hiện 16 chữ vàng.
 
Tuyên bố của Phùng Quang Thanh thật đúng là lời thú tội kinh hoàng đối với người Việt trong nước.
Cho dù Wikileaks không tiết lộ, xem như không có biên bản đó, thì xuyên qua những hành động mà đảng CSVN đã thể hiện và nhiều người đã xác nhận đó là hành động bán nước.
 
2* Đảng Cộng Sản Việt Nam xin được làm một khu tự trị trực thuộc 

Bắc Kinh
 
Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư., (3)Phạm Văn Đồng,                          (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân),  5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), 6) Lý Bằng, 7) Đỗ Mười, 9) Hồng Hà (bìa phải)

Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư., (3)Phạm Văn Đồng,
(4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân),
5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), 6) Lý Bằng, 7) Đỗ Mười, 9) Hồng Hà (bìa phải)
 
Wikileaks xác định văn kiện đó là một trong 3,100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tài liệu chi tiết như sau:
 
“Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn Văn Linh , Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện phía Việt Nam, và Giang Trạch Dân, TBT/CSTQ, Lý Bằng, Thủ tướng, đã họp 2 ngày từ 3 và 4-9-1990, tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ”.
 
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. VàViệt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây”.
 
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc TrungQuốc”. (Hết trích)
 
 3* Bí mật của chương trình 30 năm sát nhập Việt Nam vào Trung Cộng
 
Hội nghị tái lập bang giao giữa hai nước được tổ chức công khai vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, nhưng nội dung CSVN xin được sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là bí mật.
 
Cho mãi đến khi Wikileaks phổ biến tài liệu mật đó thì người Việt ở nước ngoài mới biết đến, nhưng đối với đa số người trong nước thì nó vẫn còn là một bí mật. Vì thế, để lừa bịp nhân dân Việt Nam, chương trình 30 năm mà hai đảng Cộng Sản nầy thực hiện được ngụy trang dưới những từ ngữ mỹ miều như “đại cuộc”, “phương châm 16 chữ vàng”, “hợp tác chiến lược toàn diện”, “Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác toàn diện”…
 
Những cụm từ nêu trên là cái nhãn hiệu che giấu chương trình 30 năm ở Thành Đô.
 
Wikileaks không phải là căn bản để đánh giá, nó không phải là bằng chứng, cho nên có nó hay không có nó không quan trọng, mà hành động cụ thể là CSVN thi hành đối với Trung Cộng mới chính là bằng chứng bán nước. Hành động bán nước của đảng CSVN được xác định qua những hành động cụ thể một cách chính thức bằng những văn bản của những tuyên bố chung và hành động mà Đảng CSVN đã làm.
 
 
4* Sự ra đời của “16 chữ vàng”
  1. 1. Bước mở đầu
Tháng 11 năm 1991, sau hội nghị Thành Đô, lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Sự giao lưu, hợp tác giữa hai bên về các lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá… được mở rộng, nâng lên tầm cao là bước đầu của việc hội nhập.
 
Trung Cộng cho biết con đường hợp nhất của hai nước vô cùng thuận lợi vì đó là những đặc thù về địa lý tự nhiên, chế độ chính trị, văn hoá, xã hội và vận mệnh của hai dân tộc, của hai đảng được xem như một.
“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”
Việt Trung tuy hai mà một, tương nhập là lẻ tất yếu và hợp tình, hợp lý.
 
4.2. Trung Cộng khởi tạo phương châm 16 chữ vàng
 
Tiếp tục thúc đẩy tiến trình bí mật 30 năm Thành Đô, Giang Trạch Dân đưa ra chiêu bài để ngụy trang là phương châm 16 chữ vàng. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu nhất trí ngay và cam kết luôn luôn thực hiện với quyết tâm cao độ để hoàn thành “đại cuộc” đó.
 
Thế là phương châm 16 chữ vàng ra đời từ đó. Bản tuyên bố chung về 16 chữ vàng chính thức được Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu ký vào tháng 2 năm 1999.
 
16 chữ vàng:
 
Láng giềng hữu nghị (mục lân hữu hảo), hợp tác toàn diện (Toàn diện hợp tác), ổn định lâu dài (Trường kỳ ổn định), hướng tới tương lai (Diện hướng vị lai).
 
Tháng 11 năm 2000 khi tân Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang diện kiến thì Giang Trạch Dân nhắc đến và nhấn mạnh, phương châm 16 chữ vàng là cái khung chỉ đạo căn bản và nhất quán để Việt Nam phát triển quan hệ với Bắc Kinh. Cũng giống như những người tiền nhiệm, Nông Đức Mạnh hạ quyết tâm thực hiện nội dung của 16 chữ vàng.
 
5* Thực hiện chương trình 30 năm trên cơ sở 16 chữ vàng
  1. 1. Nội dung chương trình
Chương trình 30 năm Thành Đô được các đời Tổng bí thư CSVN ký kết qua những bản tuyên bố chung về hợp tác toàn diện để Việt Nam hội đủ điều kiện sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Hợp tác toàn diện về các mặt:
  • Việc quản lý đảng, quản lý nhà nước thông qua những cuộc thăm viếng của các lãnh đạo cao cấp hai bên.
  • Giao lưu về các mặt: chính trị, kinh tế thương mại, quân sự, văn hóa, hữu nghị nhân dân…từng bước nâng lên tầm cao mới sẵn sàng cho ý nguyện hội nhập theo tinh thần của hội nghị Thành Đô năm 1990.
  1. 2. Những bước cụ thể đã được thực hiện

  1. 2.1. Hợp tác toàn diện về việc quản lý đảng và quản lý nhà nước
Các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước hai bên liên tục có những cuộc viếng thăm quan trọng, không ngừng vun đắp quan hệ hợp tác toàn diện, từng bước nâng lên tầm cao mới để đáp ứng “nguyện vọng của nhân dân hai nước” là hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
 
1). Những lãnh đạo Trung Cộng sang thăm Việt Nam
 
Từ tháng 11 năm 1992 đến năm 2013 đã có 8 lãnh đạo cao cấp Trung Cộng đến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng CSVN.
 
Thủ tướng Lý Bằng (tháng 11 năm 1992). Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch Đàng (tháng 11, 1994 và tháng 3, 2002). Chủ tịch nước Giang Trạch Dân (tháng 6, 1996). Thủ tướng Chu Dung Cơ (tháng 11, 1996). Thủ tướng Ôn Gia Bảo (tháng 12, 1996).
 
Từ 31-10 đến 2-11-2005 Hồ Cẩm Đào kinh lý Việt Nam. Đó là chuyến viếng thăm cao cấp nhất, đầy đủ cương vị: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy TW, là bước ngoặt quan trọng thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào Trung Quốc.
 
Sau đó là viếng thăm của Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Quốc Cường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo cấp thấp tới lui rộn rịp.
 
2). Về phía lãnh đạo Việt Nam sang chầu thiên triều
 
Tất cả những Tổng bí thư, chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội và thủ tướng đều phải qua diện kiến lãnh đạo Trung Cộng. Tổng bí thư, chủ tịch nước đều phải ký những bản Tuyên bố chung xác định quyết tâm thúc đẩy, hợp tác toàn diện trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt mà thực chất là hoàn tất chương trình 30 Thành Đô, sát nhập vào “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
 

Ngoài những bản tuyên bố chung, Việt Nam bị bắt buộc phải thành lập “Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Toàn Diện” để làm việc một cách cụ thể với Ủy ban Hợp tác Toàn diện của Trung Cộng.

 














Phiên họp lần thứ tư, phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo Hợp Tác Toàn Diện
 
Vì sao phải thành lập ủy ban chỉ đạo hợp tác toàn diện? Một quốc gia độc lập chỉ cần xác định chính sách ngoại giao là đủ. Khi cần thì ký những hiệp ước, những thỏa thuận riêng biệt cho mỗi vấn đề.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (phải) và thượng tướng Mã Hiểu Thiên
 
 















Việt Trung hợp tác toàn diện về quốc phòng
  1. 2.2. Hợp tác toàn diện về kinh tế với Bắc Kinh
1). Thiết lập những nguyên tắc luật pháp căn bản về kinh tế
 
Năm 2005, trong số 44 hiệp định và thỏa thuận về kinh tế và thương mại, Việt Nam và Trung Cộng đã có 20 văn bản thỏa thuận làm căn bản pháp lý trong quan hệ giữa Việt Nam với các địa phương bên Trung Cộng. Đó là: Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán vùng biên giới, Hiệp định thành lập Ủy Ban Việt-Trung về kinh tế và thương mại.
 
Hiệp định giao thông đường sắt cao tốc và đường bộ, đường hàng không để lưu thông hàng hóa giữa địa phương với trung ương Bắc Kinh.
 
Từ ngày 1-1-2004 Việt Nam và Trung Cộng thực hiện bãi bỏ thuế xuất, nhập khẩu. Các cặp cửa khẩu hai bên đã được khai thông tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông tự do, mở ra một thời kỳ giao lưu hàng hóa không biên giới giữa hai bên.
 
2). Kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào chính quyền trung ương Bắc Kinh

 













Hợp tác toàn diện về kinh tế thương mại
  1. Về đầu tư xây dựng
Nhà thầu Trung Cộng hầu như thắng thầu hầu hết những công trình quan trọng với loại thầu trọn gói EPC, còn gọi là “hợp đồng trọn gói” hay “hợp đồng chìa khoá trao tay”. EPC là Engineering , Procurement and Construction. (Thiết kế, mua sắn, xây dựng).
 
Hiện nay có 90% gói thầu EPC được giao cho Trung Cộng thực hiện, bao gồm những dự án lớn và quan trọng về năng lượng (nhà máy điện), kim loại, hoá chất…điều nầy cho biết Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng rồi.
 
b. Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
 















Tại hầu hết các chợ lớn như Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Ngã Tư Sở, chợ Xanh, chợ Long Biên, chợ Ninh Hiệp… tràn lan các mặt hàng Trung Quốc

 















Hàng hóa độc hại Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
 
Thương lái Trung Cộng xâm nhập vào các vùng sâu, dùng thủ thuật giá, mua những thứ như cây tràm cỗ ở Quảng Ngãi, và những thứ không biết để làm gì, nhưng đã để lại những tác hại vô cùng to lớn. Đó là đánh phá thị trường VN.
 
Nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp giá rẻ, mà không được kiểm soát về chất lượng, vệ sinh, an toàn, thậm chí có những mặt hàng Trung Cộng mà dán nhãn sản xuất ở VN. Nhiều trường hợp dán cờ Trung Cộng trên các sản phẩm bày bán ở các siêu thị VN.
 
Hàng hóa rẻ tiền của Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, giết chết các công ty trung bình và nhỏ trong nước, đưa đến công nhân thất nghiệp.
  1. Nhập siêu của Việt Nam chứng tỏ lệ thuộc kinh tế
 
Năm 2013, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa Trung Cộng (TC)  36tỷ 960 triệu USD, trong khi đó xuất khẩu chỉ có 13tỷ 960 triệu USD. Đó là nhập siêu. Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch nầy khiến cho VN phụ thuộc vào TC.
TS Lê Đăng Doanh nêu nhận xét: “Mức nhập siêu to lớn nầy gây sức ép rất nặng khiến cho VN phụ thuộc vào TC: mất ngoại tệ, mất thị trường trong nước, công nhân mất việc. Khi người dân mua hàng hóa TC đồng nghĩa với việc trả lương cho công nhân nước nầy”.
  1. 2.3. Hợp tác toàn diện về văn hóa giáo dục
          1). Việt Nam cam kết giáo dục nhân dân về 16 chữ vàng và 4 tốt
 
Ngày 21-2-2013, Nguyễn Thiện Nhân, ủy viên BCT dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao sang Bắc Kinh. Hai bên đã ký một thỏa thuận hợp tác toàn diện cho giai đoạn 5 năm từ 2014-2019.
 
Nguyễn Thiện Nhân, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cam kết, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc VN (MT/TQ/VN), ông sẽ vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt 16 chữ vàng và 4 tốt để hoàn thành tốt thoả thuận của hai bên từ khi bình thường hóa năm 1990. Ông Nhân cho biết MT/TQ/VN sẽ triển khai chức năng và nhiệm vụ mới trong Hiến pháp 2013 là “giám sát phản biện xã hội” để tăng cường hiểu biết của nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc.
 
Việt Nam sẽ thực hiện Cung Văn hoá Việt-Trung tại Hà Nội. Trong 15 năm, kể từ 2005 Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn đại biểu văn hóa trên các lãnh vực: báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch nghệ, truyền hình sang tham quan học hỏi và trình diễn ở Bắc Kinh.
 
2). Giáo dục thanh niên
 















Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam (Nguyễn Thiện Nhân) và Bí thư Thứ nhất TƯ Đoàn Đoàn    TNCS Hồ Chí Minh Nguyễn Đắc Vinh giao lưu với các đại biểu thanh niên hai nước

 
1 2

Hữu nghị giữa hai đoàn thanh niên khu tự trị VN & Trung Quốc
 
Theo một hiệp định, mỗi năm Trung Cộng cấp 130 suất học bổng cho sinh viên VN, đồng thời VN chỉ cấp 15 học bổng cho sinh viên Trung Cộng, có nghĩa là Bắc Kinh đào tạo cán bộ tương lai cho họ.
 
Việt Nam đưa những đoàn thanh niên sang thăm viếng, hợp tác hữu nghị với thanh niên sắc tộc của các khu tự trị. Nổi bật nhất là Liên hoan thanh niên VN-TQ được tổ chức vào ngày 26-11-2013, 3,000 thanh niên do Nguyễn Thiện Nhân hướng dẫn tham dự liên hoan. Trong diễn văn, ông Nhân cho biết: “Đây là dịp để thế hệ trẻ hai nước kết chặt quan hệ hai đảng, hai nước, không ngừng đơm hoa kết trái, vun đắp tình hữu nghị của hai dân tộc”.
 
Định hướng dư luận, Lập Viện Khổng Tử, nằm trong hợp tác văn hoá giáo dục cho thanh niên.
16 chữ vàng và 4 tốt là chiêu bài ngụy trang cho chương trình 30 năm để VN hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc, nói thẳng ra là chương trình bán nước của đảng CSVN.
  1. 2.4. Trung Cộng di dân vào Việt Nam
Bọn Tàu khựa vào Việt Nam không cần Visa nhập cảnh, nên tự do đi luông tuồng như đi vào Tây Tạng, Tân Cương, Mãn Châu, Nội Mông. Bọn họ đã có mặt trên khắp hang cùng ngỏ hẻm của đất nước Việt Nam. Trong 65 khu chế xuất, khu công nghiệp, không nơi nào vắng bóng người Hoa cả.
 
Chúng chiếm đóng các vị trí chiến lược, từ việc thuê đất 306,000  hecta trong 50 năm với giá rẻ mạt ở biên giới phía Bắc, từ Bauxite Tây Nguyên đến Cà Mau, có thể thành lập nhiều sư đoàn của đạo quân thứ năm với những công nhân, mà thực chất là binh sĩ, tình báo, đặc công. Họ nắm trong tay những bản đồ vị trí các nhà máy điện, nhà máy quốc phòng, cơ xưởng…
 
Những người di dân tạo lập thành những khu riêng biệt của người Hoa mà công an Việt Nam không được vào đó để kiểm soát.
 
1). Khu phố Tàu Bình Dương
 
Trung tâm thương mại Đông Đô Đại Phố (Chữ Tàu trên cổng vào)

Trung tâm thương mại Đông Đô Đại Phố (Chữ Tàu trên cổng vào)
 
 

Tờ Việt Báo tại hải ngoại có bài viết tựa đề: “Cờ Trung Quốc treo rợp Bình Dương: Dân Việt có nguy cơ mất đất”
 
Theo bài báo thì “Cờ Trung Cộng treo tưng bừng tại Bỉnh Dương để mừng Quốc Khánh lần thứ 90 của Trung Cộng bởi vì người Hoa đang cư ngụ đông đảo ở Phố Tàu nơi đây.
 
Một bài viết có tựa đề “Phố người Hoa, Rừng người Hoa, sòng bạc người Hoa,…và người Hoa” còn đưa ra quan ngại rằng “trong một tương lai không xa, con cháu người VN sẽ không còn được sống trên quê hương mình”.
 
Bài báo viết tiếp:
 
“Sau Casino của người Hoa ở Đà Nẳng chỉ dành cho người nước ngoài, lại đến khu phố dành riêng cho người Hoa ở Bình Dương, nơi mà người Việt cũng không được bén mảng tới. Vậy trong tương lai, người Việt sẽ chỉ được sử dụng một phạm vi bao nhiêu bởi vì, biển, rừng, đô thị đều có bóng dáng của người Hoa.
 
Phố Tàu là khu vực riêng biệt của cộng đồng người Hoa, người Việt khó chen chân vào. Phố Tàu ở Bình Dương mang tên Trung Tâm Thương Mại Đông Đô Đại Phố, trong đó có một trường Đại học quốc tế Miền Đông, một bịnh viện 1,000 giường, một khu phức hợp: thể thao, hội nghị, tiệc cưới, một sân golf, các cửa hiệu thương mại và một khu giải trí.
 
Bọn Tàu khựa sinh hoạt theo phong tục tập quán của họ và luật pháp Việt Nam bị bỏ ra ngoài. Nhân viên công lực VN không được vào kiểm tra cần thiết để nắm quyền kiểm soát khu vực.
Ngay cả nghĩa địa người Hoa ở Việt Nam cũng là một khu vực riêng biệt bất khả xâm phạm. Vậy hỏi quyền lực quốc gia còn đâu nữa?
 
6* Những bản tuyên bố chung của lãnh đạo CSVN
  1. 1. Thỏa thuận 4 điểm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Ngày 22-8-2006, Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh thúc đẩy tăng cường quan hệ toàn diện và nhất trí với Hồ Cẩm Đào 4 khía cạnh:
 
Thứ nhất. Lãnh đạo cao cấp hai bên phải duy trì “quan hệ gần gũi” thông qua những cuộc viếng thăm cấp cao.
 
Thứ hai. Quan hệ kinh tế thương mại phải được nâng lên nấc thang cao mới, cụ thể hơn.
 
Thứ ba. Vấn đề lãnh thổ phải luôn luôn đạt được “sự đồng thuận”, bảo đảm ổn định lâu dài. (Nếu đồng thuận thì ổn định)
 
Thứ tư. Hai bên thống nhất về chính sách ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển bền vững và hữu nghị.
 
Năm 2009, tỉnh Hải Nam và Việt Nam nhất trí hợp tác toàn diện về chiến lược quân sự.
 (Tại sao một quốc gia lại phải hợp tác với một tỉnh của quốc gia khác?)
  1. 2. Bản tuyên bố chung của Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ngày 15-10-2011
  2. Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước.
  3. Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
  4. Hai bên đã nhìn lại và tổng kết 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ (1990), khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.( Thôn tính tương lai)
  5. 3. Bản tuyên bố chung của Trương Tấn Sang
Trong bản tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có đoạn ghi như sau:
 
– Dân sự: Đào tạo nhân dân, văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất, chế biến. Khai thác lãnh thổ, lãnh hải, đất liền, biên giới, cửa khẩu, biển Đông, rừng núi, đầu tư, khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư nghiệp, dầu khí, giao thông, vận tải và du lịch.
 
– Chính trị: Xây dựng nguồn máy đảng, và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu nghị quân, dân, cán chính cao cấp.
– Quân sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.
 
Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và kết nối quản trị Bắc Kinh.
(Đường dây nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở Bắc Kinh)
Ngoài ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Người Trung Quốc được hưởng qui chế “bất xâm phạm” từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác toàn diện trên lưng người Việt Nam.
 
“Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các tỉnh, khu vực của hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, hợp tác toàn diện với 4 khu tự trị của Trung Quốc gồm có: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam”.
 
Trước hết Trung Cộng muốn Việt Nam hội nhập với 4 khu tự trị để trở thành 5 khu tự trị gồm có: Mãn, Tạng, Hồi, Mông và khu tự trị mới là Việt Nam. Và cờ Trung Cộng trở thành 6 ngôi sao mà VN đã dùng để chào mừng Tập Cận Bình vừa qua.
 
Thực tế là chỉ có 3 tỉnh của Trung Cộng mà đòi hợp tác toàn diện với 7 tỉnh Việt Nam, tạo điều kiện dễ dàng và hợp pháp cho thương lái, nhân viên Trung Cộng được đi khắp mọi nơi để nắm tình hình các mặt, biết rõ địa hình địa vật, đường đi lối về, tài nguyên, khoáng sản, đặc sản để khi cần thì xử dụng.
 
Trên Facebook, nhà bình luận Trần Trung Đạo nêu nhận xét như sau: “Đọc bản tuyên bố chung mới thấy số phận chùm gởi của CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một văn bản 8 điểm mà có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.
 
7* Cộng Sản Việt Nam bị cấy sinh tử phù
 
Trung Cộng đang nắm trong tay những con bài tẩy bằng văn bản chính thức đã được các lãnh đạo CSVN ký và cam kết thi hành. Công hàm bán nước Phạm Văn Đồng chỉ là con bài thứ nhất mà thôi. Những lá bài khác như biên bản bí mật ở Thành Đô năm 1990 và những bản tuyên bố chung đã được ký kết như đã nêu trên.
Thiên la địa võng đã bày ra để khống chế và trừng trị Hán ngụy Việt Nam nếu phản chủ. Các vị trí chiến lược chủ yếu như rừng đầu nguồn, Lào, Campuchia, Tây Nguyên, hệ thống giao thông cao tốc xuyên Việt…và những sư đoàn của đạo quân thứ năm dưới lớp áo công nhân, thương nhân…khiến cho số phận của lãnh đạo CSVN thê thảm như con cá nằm trên tấm thớt của Trung Cộng.
 
Khi Tập Cận Bình niệm thần chú thì bộ tứ “hùng dũng sang trọng” vừa ôm đầu vừa gật đầu lia lịa.
 
8* Vì sao Trung Cộng không muốn đưa nội vụ ra tòa án quốc tế?
 
Ngày 2-6-2014 báo South China Morning Post tường thuật rằng ngày 1-6-2014 Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh cho biết Hà Nội vẫn chưa quyết định bao giờ sẽ yêu cầu toà án trọng tài quốc tế phân xử tranh chấp, nhưng nói đó là tùy thuộc vào hành động của Trung Quốc.
Trước đó, Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết là VN đã chuẩn bị bằng chứng cho hồ sơ pháp lý nầy, nhưng mọi việc sẽ do Bộ Chính Trị quyết định.
 
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ lại lên tiếng là kiện chẳng ăn thua gì.
Có thể dùng câu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để biết bản chất của CSVN trong vấn đề nầy.
 
Vì sao Trung Cộng không muốn nội vụ được đưa ra toà án quốc tế?
 
Không phải TC sợ bị thua kiện, vì họ đã có khả năng vô hiệu hóa vụ kiện 100% bởi quyền phủ quyết ở HĐ/BA/LHQ, mà cũng không phải vì Trung Cộng sợ dư luận quốc tế, vì nếu sợ thì đã không làm ngang tàng như thế..
 
Điều mà Trung Cộng mong muốn là “những mâu thuẩn trong gia đình” phải để gia đình giải quyết. Tập quán Á Đông là nếu đưa chuyện nội bộ gia đình ra ngoài thì chẳng khác gì “vạch áo cho người xem lưng”. Điều Trung Cộng muốn là Việt Nam phải là một trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc mà Nguyễn Văn Linh đã lặn lội từ Hà Nội đến Thành Đô để thỉnh cầu hồi năm 1990.
 
Đây là phép thử, xem CSVN có đủ can đảm để thoát ra đại gia đình các dân tộc TQ đó không?
Nếu quan sát kỹ những tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh và Trần Công Trục nêu trên, thì có thể đoán được lãnh đạo CSVN vẫn còn hèn nhát, vì không dám phản chủ, nên chỉ dám nói mà không dám làm. Hơn nữa Việt Cộng đã bị cấy sinh tử phù và niền chiếc vòng kim cô lên đầu rồi thì chẳng còn hành động can đảm nào nữa cả.
 
Hãy chờ xem!
 
9* Kết luận
 
Giả sử như Wikileaks không tiết lộ biên bản bí mật ở hội nghi Thành Đô năm 1990, hoặc xem như không có nó, thì những hành động của đảng CSVN cũng đã bị lên án là bán nước, hèn nhát vì đã đặt đất nước, dân tộc Việt Nam dưới tay bọn Trung Cộng. Sự thật hiển nhiên đó không thể chối cãi được.
 
Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng từ lâu rồi. Ông Vương Gia Thụy, Trưởng ban Đối ngoại Trung Cộng, đã nêu những bằng chứng cho thấy Việt Nam đã được sát nhập vào Trung Cộng, như sau: “Việt Nam và Trung Quốc đã hợp tác chiến lược toàn diện. Cơ chế xã hội giống hệt nhau. Con đường phát triển tương tự như một. Quan hệ hai nhà nước ổn định và cùng một mục đích phát triển chấn hưng sự nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Đảng CSVN là tội đồ của dân tộc. Hãy đối chiếu với di chúc của vua Trần Nhân Tông thì thấy rõ ngay. Nhà vua di chúc: “Cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không để lọt vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhũ nầy như là một lời di chúc cho muôn đời con cháu về sau” (Vua Trần Nhân Tông)
 
“Các vua Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước!”.
 
 
Trúc Giang

Công an trở thành đám vu khống bỉ ổi!

(VNTB)-Công dân Bùi Thị Minh Hằng không phạm tội hình sự (Bài 1)

(VNTB) Bản kết luận điều tra số 14/KLĐT-PC44 của Công an tỉnh Đồng Tháp, đề ngày ký 02-07-2014 đã cho rằng ba công dân Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh “cùng can tội gây rối trật tự công cộng”.
Tuy nhiên nội dung của bản kết luận này cho thấy khả năng không chỉ các điều tra viên, mà ngay cả đại tá Lê Văn Bé Sáu, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp đã có những nhầm lẫn cách hiểu về chứng cứ, vật chứng trong việc xác định hành vi phạm tội hình sự ở Điều 245 của Bộ Luật Hình sự.


 -----
Minh Tâm
Bài 1:

Công an vu khống?

Theo mô tả của kết luận điều tra, khoảng 10 giờ ngày 11-02-2014, tổ tuần tra kiểm soát giao thông khi đi đến khu vực cầu Nông Trại trên huyện lộ DH67B thuộc ấp An Quới, xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò thì phát hiện phía trước, ngược chiều có một nhóm người đi trên 11 xe mô tô từ hướng ngã ba ra tỉnh lộ 849. 
Công an nói gì?

Các xe mang biển số 67TA-0361 và 67L1-38193, trong đó có hai người đàn ông tên là Nguyễn Vũ Tâm và Võ Văn Bửu điều khiển xe chạy đi đầu có hành vi chạy dàn hàng ngang từ ba xe trở lên (còn người chạy xe bên trong lề đường không rõ họ tên, không vi phạm luật giao thông) gây cản trở giao thông nên đồng chí Nguyễn Đức Nhã ra hiệu lệnh dừng xe theo quy trình để kiểm tra giấy tờ đối với hai xe vi phạm nói trên. Thấy cảnh sát giao thông ra hiệu lệnh dừng xe của Tâm và Bửu để kiểm tra thì nhóm người đi chung với Tâm và Bửu dừng xe lại gồm những người sau:…” (dừng trích).

Kết luận điều tra cho biết do việc dừng xe này gây cản trở giao thông nên công an yêu cầu “các xe này nép sát vào lề đường”. “Trong lúc này Nguyễn Văn Minh người phía sau xe mô tô do vợ là Bùi Thị Diễm Thúy điều khiển, nhảy xuống dùng tay phải đánh trúng vào tay phải của đồng chí Danh một cái” (dừng trích). Không chấp hành, nhóm người đi chung đã chửi và la lớn tiếng.

Lúc này, người dân tại địa phương thấy bất bình trước thái độ hung hãn, xem thường pháp luật của các đối tượng trên nên ra xem thì bị can Bùi Thị Minh Hằng và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh tiếp tục có những lời lẽ chửi bới tổ tuần tra như: “Công an là đồ ăn cướp”, “Công an chặn đường cướp tài sản”, “Đả đảo Cộng sản”, “Đả đảo chính quyền địa phương” và chửi luôn cả người dân ở địa phương là “đồ ngu dân” (…); Lúc đó tại khu vực này có khoảng 700 người dân hiếu kỳ đến xem làm cho người đi đường không thể qua lại được, gây ùn tắc giao thông trên đường huyện lộ DH67B một đoạn đường dài khoảng 500m” (dừng trích).


Công an sai luật khi cáo buộc

Những nội dung như trích dẫn nói trên cho thấy khả năng về cáo buộc tội hình sự ở ba công dân Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh là “hành vi vu khống” từ phía cơ quan công an điều tra.

Thứ nhất, công an nhìn nhận chỉ có 02 xe máy biển số 67TA-0361 và 67L1-38193 là dấu hiệu chạy dàn hàng ngang. Theo Nghị định 171/2013/NĐ-CP (Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01-01-2014), không có quy định nào xử phạt với hành vi điều khiển xe gắn máy dàn hàng ngang 02 xe, mà chỉ có khi người lái xe dàn hàng ngang từ 03 xe trở lên.
Cụ thể tại Điểm b, Khoản 2, Điều 6, Nghị định 171/2013/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy khi thực hiện hành vi vi phạm: “Điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 03 (ba) xe trở lên”. Như vậy, theo đó, đi xe gắn máy dàn hàng ngang 02 xe sẽ không bị xử phạt.

Thứ hai, theo quy định tại Điều 64 của Bộ Luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), thì: “1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng: a) Vật chứng; b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; c) Kết luận giám định; d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.
Theo quy định của BLTTHS thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau: Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra; Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định; ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này. Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ.
Trong bản kết luận điều tra số 14/KLĐT-PC44 của Công an tỉnh Đồng Tháp, toàn bộ phần chứng cứ liên quan đến cáo buộc “gây rối trật tự công cộng”, chỉ gồm lời lẽ được cho là “chửi bới tổ tuần tra như: “Công an là đồ ăn cướp”, “Công an chặn đường cướp tài sản”, “Đả đảo Cộng sản”, “Đả đảo chính quyền địa phương” và chửi luôn cả người dân ở địa phương là “đồ ngu dân”.

Thứ ba, bản kết luận điều tra cho biết công an đã thu giữ tại hiện trường, gồm có: “Một tấm băng-rôn bằng vải màu vàng, chữ màu đỏ, kích thước 1,4m x 56cm có nội dung “Đả đảo công an côn đồ bắt người trái pháp luật”; Một tấm băng-rôn bằng vải màu vàng, chữ màu đỏ kích thước 1,4m x 59cm có nội dung “Yêu cầu xử lý công an côn đồ để làm gương cho dân”; Một tấm băng-rôn bằng vải màu vàng, chữ màu đỏ, kích thước 1,4m x 56cm có nội dung: “Đả đảo những tên cộng sản đập phá bàn thờ Đức Huỳnh Giáo Chủ”; Một tấm băng-rôn bằng vải màu vàng, chữ màu đỏ, kích thước 80cm x 50cm, có nội dung: “Cực lực lên án công an, C.S khủng bố xúc phạm tôn giáo”. “Thu giữ trong người của bị can Bùi Thị Minh Hằng: một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, Model A1332 EMC 380BFFC ID: BCG-E2380B IC: 579C-E2380B. Điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong” (trích phần II, bản kết luận điều tra).

Theo nội dung mô tả ở bản kết luận điều tra, các vật dụng băng-rôn này được chuẩn bị để gây rối trật tự. Tuy nhiên tình tiết được nêu trong bản kết luận điều tra lại không có dòng nào liên quan việc các công dân này thực hiện gây rối trật tự bằng những vật dụng được công an cho rằng đã được chuẩn bị trước ra sao.

Như vậy, với ít nhất 3 điểm nêu trên cho thấy cơ quan điều tra đã buộc tội các công dân về hành vi mà họ không hề làm, hoặc chưa hề làm thời điểm đó và địa điểm đó. Ngoài ra công an còn vấp phải lỗi nhận định, khi đưa ra các nội dung mâu thuẫn nhau trong một vụ việc. Phần đầu bản kết luận mô tả: “Lúc này, người dân tại địa phương thấy bất bình trước thái độ hung hãn, xem thường pháp luật của các đối tượng trên nên ra xem”. Phần kế tiếp lại là: “Lúc đó tại khu vực này có khoảng 700 người dân hiếu kỳ đến xem làm cho người đi đường không thể qua lại được”.

Minh Tâm










Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả.

----------------------

Kỳ tới - Bài 2: Giả dụ công an đã đưa ra cáo buộc có căn cứ, thì việc bắt tạm giam các bị can là có dấu hiệu vi phạm vào Điều 88 của BLTTHS.